Bùng nổ tâm lí không phải là những hành vi không bình thường. Ở độ tuổi nhất định, mọi người đều có những cơn bùng nổ tâm lí. Tự kiểm soát là khả năng ta có dần cùng với thời gian, chẳng hạn trẻ chập chững biết đi và trẻ mầm mon thiếu khả năng tự chủ thường có những cơn bùng nổ tâm lí.
Bùng nổ tâm lí không phải là những hành vi không bình thường. Ở độ tuổi nhất định, mọi người đều có những cơn bùng nổ tâm lí. Tự kiểm soát là khả năng ta có dần cùng với thời gian, chẳng hạn trẻ chập chững biết đi và trẻ mầm mon thiếu khả năng tự chủ thường có những cơn bùng nổ tâm lí. Tuy vậy cũng có những đặc điểm thuộc về tính cách khiến một số trẻ có xu hướng bùng nổ tâm lí nhiều hơn các trẻ khác.
Khi ta cảm thấy sợ hãi vô cùng, tất cả chúng ta đều tự động phản ứng lại bằng cách đối mặt, lảng tránh hoặc đóng băng cùng những cảm xúc rất mạnh như thể mạng sống của ta đang bị đe dọa. Phản ứng sinh tồn này xét trên nhiều phương diện đều rất phù hợp với khái niệm bùng nổ tâm lí. Trong cuốn Trí tuệ cảm xúc, Daniel Goleman đã định nghĩa khoảnh khắc này là một trạng thái “bị cảm xúc chiếm đoạt” (Goleman, 1995). Như thể trung tâm điều khiển cảm xúc đã hoàn toàn chiếm lĩnh bộ não khiến chúng ta không thể dễ dàng sử dụng lí trí của mình nữa.
Một số người gọi đây là quá trình xâm chiếm của bộ não “cá sấu” hay não “bò sát”. Não người gồm có một phần dấu vết của não bò sát cổ đại (đặc biệt là vùng limbic), đó là phần não điều khiển phản ứng “đối mặt hoặc lảng tránh” và một phần mới hơn, phần con người của bộ não mà ta gọi là đại não, nơi điều khiển khả năng lên kế hoạch và lập luận. Khi bị đe dọa, phần não bò sát trong não người có thể khiến chúng ta lảng tránh, đối mặt hoặc đóng băng mà không có sự can thiệp của đại não. (nghĩa là, không cần tới khả năng lập luận và suy nghĩ về điều mà chúng ta đang làm).
Phản ứng nhanh và không cần suy nghĩ này hiển nhiên có giá trị mang tính sinh tồn, nhưng trong một thế giới mà những mối đe dọa không phải bao giờ cũng gây nguy hiểm đến tính mạng, thì phản ứng đối mặt, lảng tránh hay đóng băng có thể dẫn tới những cơn bùng nổ tâm lí không cần thiết, khiến chúng ta tự nhiên trở nên khó chịu trong khi một bộ óc lí trí có thể xử trí hiệu quả hơn.
Xem thêm:
Mô hình giáo dục chuyên biệt cho kẻ tự kỷ
Hiểu và chăm sóc trẻ khiếm thị
Phương pháp hỗ trợ trẻ chậm nói tại nhà
Học viện giáo dục hòa nhập cho trẻ tự kỷ chậm phát triển
-------------------------------------------------------------------------------
Mọi thông tin cũng như thắc mắc về chương trình học cho các bé, ba mẹ có thể tham khảo tại thông tin dưới đây:
Học viện giáo dục hòa nhập Edison ( https://edison.hoanhap.edu.vn/ )
Address: 196/143 Trường Chinh, Quán Ngữ, Kiến An, Hải Phòng, Vietnam
Phone: 022 536 1111 - 0833 319 119
Email: info@edison.hoanhap.edu.vn
Website: https://edison.hoanhap.edu.vn/
Với một đứa trẻ bị tăng động giảm chú ý, việc học tập không phải là dễ dàng vì chúng rất khó để ngồi yên hay tập trung nghe giảng. Chưa kể, tại lớp học, trẻ có rất nhiều giờ luyện tập các kỹ năng. Sau giờ học đôi khi có thêm bài tập về nhà,… tất cả chỉ khiến một ngày của đứa trẻ trở nên tồi tệ hơn mà thôi.
Giai đoạn trẻ bước vào độ tuổi đi học là giai đoạn khó khăn nhất với bất kỳ đứa trẻ nào. Lúc này, trẻ dành nhiều thời gian hơn cho các hoạt động bên ngoài gia đình, có nhiều mối quan tâm hơn, nhiều người cần tương tác hơn,…vv. Với một đứa trẻ tự kỷ, việc này là không hề dễ dàng, do hạn chế của chúng trong giao tiếp xã hội, nguy cơ lo lắng thái quá và stress trẻ gặp phải khá cao, ảnh hưởng đến việc học tập, sinh hoạt bình thường của trẻ.
Trẻ tự kỷ thường rất nhạy cảm với các yếu tố tác động như âm thanh, ánh sáng, tác động xúc giác (đụng chạm cơ thể),…vv. Trẻ tự kỷ cũng rất dễ mất bình tĩnh khi đối mặt với những thay đổi, những điều trẻ cảm thấy xa lạ hay khó chịu từ các đồ vật, con người và hoạt động thường ngày. Những cảm xúc tiêu cực có thể khiến trẻ tự kỷ càng khó kiểm soát hành vi, suy nghĩ hơn nữa, chúng có thể sẽ trở nên kích động, la hét, đập phá, gây nguy hiểm cho chính mình và người xung quanh.
những người khiếm thính, khiếm thị, mắc các khuyết tật cơ thể hoặc thua kém về trí tuệ,…vv. Khi giao tiếp với họ cần tránh làm tổn thương, hay không được có ý xúc phạm, cần luôn thể hiện sự tôn trọng và quan tâm đúng mực. Đặc biệt là với trẻ em bị các khiếm khuyết, chúng có thể rất nhạy cảm. Để có được những cuộc giao tiếp hiệu quả với những đứa trẻ đặc biệt, cần lưu ý một số điểm sau đây:
Dù áp dụng phương pháp nào, thì cũng cần theo dõi, đánh giá đều đặn. Việc chữa trị cho trẻ giống như thực hiện một kế hoạch, cần có chiến lược rõ ràng, thời gian để thực hiện và định kỳ đo lường kết quả để điều chỉnh. Việc chữa trị là một quá trình dài và nhiều khó khăn, cần sự nỗ lực từ cả phía trẻ mắc bệnh lẫn cha mẹ/người chăm sóc. Hãy kiên trì với việc điều trị dù kết quả có thể đến chậm.
người ta có thể thiết kế các phương pháp trị liệu bằng tác động đến não bộ của trẻ để cải thiện tình trạng tăng động và giảm chú ý. Một trong số đó là thiết lập chế độ ăn giúp cơ thể sản sinh ổn định lượng Dopamine cần thiết – phương pháp này có tác động tích cực đến việc cải thiện khả năng tập trung cho trẻ tăng động giảm chú ý:
Bài viết này muốn giới thiệu đến bạn, một phương pháp tưởng chừng “vô lý”, “không thể”, nhưng đã được các nhà khoa học Úc chứng minh là mang lại lợi ích tốt cho tình trạng của trẻ tự kỷ. Và phương pháp đó là: Cho trẻ tự kỷ chơi với thú cưng.
Việc chuẩn đoán tự kỷ nên được thực hiện bởi các sĩ chuyên khoa, thông qua một loạt các hoạt động, các quan sát và các bài kiểm tra được thiết kế dành riêng để thăm dò và chuẩn đoán có độ chính xác cao. Đồng thời, cũng dựa trên thông tin về triệu chứng được cung cấp bởi cha mẹ/ người chăm sóc trẻ để có kết luận chính xác nhất
Vậy, “Hiếu động” và “Tăng động” khác nhau như thế nào? Làm thế nào để nhận biết con đang hiếu động hay bị tăng động giảm chú ý?
Tăng động giảm chú ý hay Attention Deficit Hyperactivity Disorder (ADHD) là một chứng rối loạn tâm lý rất thường gặp ở trẻ em. Tỉ lệ trẻ mắc phải là 3-6%. Biểu hiện bất thường của tăng động giảm chú ý chỉ được nhận thấy rõ rệt nhất vào giai đoạn trẻ từ 4-7 tuổi, giai đoạn trẻ đến trường.
Hội chứng tự kỷ ở trẻ nhỏ tại Việt Nam không có gì là quá xa lạ với xã hội. Số trẻ mắc phải hội chứng này đang ngày một gia tăng và có nguy cơ trở thành một “căn bệnh thế kỷ” phổ biến trong cộng đồng. Thế nhưng nhận thức của mọi người về hội chứng này vẫn còn chưa sâu sắc, thậm chí hời hợt. Các định kiến xã hội cùng các nhìn nhận không chính xác về tự kỷ đã gây ra rất nhiều khó khăn cho các bậc cha mẹ và chính đứa trẻ trong nỗ lực hòa nhập với cộng đồng.
Tăng động giảm chú ý được xếp vào nhóm hội chứng rối loạn phát triển lan tỏa ở trẻ. Nghĩa là trẻ bị suy giảm một chức năng nào đó, dẫn đến suy giảm các chức năng khác của cơ thể.
Thông thường trẻ đã mắc phải chứng bệnh này rất lâu rồi mới được phát hiện ở độ tuổi đến trường, gây rất nhiều khó khăn cho trẻ, ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển bình thường của trẻ.
Để nuôi dạy một đứa trẻ bình thường, cha mẹ đã tốn không ít công sức, và nếu đứa trẻ đó còn là một đứa trẻ đặc biệt, thì việc này càng khó khăn và nhiều thử thách hơn. Chẳng ai muốn con khi sinh ra gặp phải các vấn đề về sức khỏe hay tâm lý cả, nhưng nếu trường hợp này xảy ra thì sao? Cha mẹ sẽ phải làm gì khi biết con là một đứa trẻ đặc biệt – con là một đứa trẻ tự kỷ?
Tự kỷ là một hội chứng rối lọan phát triển lan tỏa phức tạp của hệ thần kinh, não bộ thường gặp phải ở trẻ dưới 3 tuổi.
ABA phân chia các nhiệm vụ thành nhiều nhiệm vụ nhỏ hơn với rất nhiều các hoạt động, sau đó dạy đứa trẻ và giúp chúng hoàn thành các nhiệm vụ này đến khi ghi nhận được một hành động tốt. Kỹ thuật này nhằm mục đích củng cố hành vi cho trẻ tự kỷ - nghĩa là khuyến khích các hành vi tốt cần phát huy của trẻ, khuyến khích chúng tương tác giao tiếp và loại bỏ dần các hành vi không phù hợp ngăn cản trẻ hòa nhập. Được áp dụng trong việc dạy kỹ năng, dạy tương tác cho trẻ tự kỷ.
bạn tuyệt đối không nên quy chụp trí tuệ của trẻ tự kỷ, hay có thái độ xem thường, miệt thị chúng. Chúng có thể rất thông minh, chẳng hạn như những đứa trẻ bị hội chứng Asperger – một dạng tự kỷ thông thái - chỉ là không biết cách thể hiện mình thôi.
Theo một số nghiên cứu mới đây, các nhà khoa học phát hiện ra rằng, người mắc chứng tăng động giảm chú ý (ADHD) có nguy cơ phát triển sớm chứng bệnh Parkinson gấp hai lần so với người bình thường.
Hiện vẫn chưa có các nghiên cứu hay kết luận chính xác về tác dụng phụ của thuốc trong điều trị chứng Tăng động giảm chú ý (ADHD) ở trẻ. Tuy nhiên, trước các lợi ích và rủi ro thấy rõ từ việc dùng thuốc, cha mẹ nên cân nhắc quyết định nên hay không nên, hoặc có thể sử dụng kết hợp để có thể đạt được kết quả mong muốn, giảm thiểu được rủi ro sử dụng thuốc.