Học viện giáo dục hòa nhập Edison - Giáo dục chuyên biệt hình thành và phát triển phù hợp với những điều kiện xã hội, kinh tế và phù hợp với trình độ nhận thức, trình độ phát triển khoa học kĩ thuật của nhân loại. Nó đóng vai trò tích cực trong lịch sử phát triển của khuyết tật học.
Học viện giáo dục hòa nhập Edison - Giáo dục chuyên biệt hình thành và phát triển phù hợp với những điều kiện xã hội, kinh tế và phù hợp với trình độ nhận thức, trình độ phát triển khoa học kĩ thuật của nhân loại. Nó đóng vai trò tích cực trong lịch sử phát triển của khuyết tật học.
Giáo dục chuyên biệt là phương thức giáo dục tách biệt trẻ em có các dạng tách biệt khác nhau và cơ sở giáo dục ết tậtiêng. Đây là mô hình phát hiện sớm nhất trong lịch sử giáo dục trẻ khuyết tật, nó được thực hiện từ năm đầu của thế kỉ XỈ các nước, Pháp,Đức, Tây Ban Nha và một số châu Âu khác. Đầu tiên một số tu sĩ tập trung những trẻ mù, trẻ câm điếc vào các lớp học trong nhà thờ để dạy. Dần dần cách tập trung những trẻ khuyết tật để dạy được phát triển ở nhiều nước và trở thành hệ thống các trường chuyên biệt dạy trẻ khuyết tật. Mỗi loại trẻ khuyết tật (điếc câm, người mù, chậm pháy triển trí tuệ,…) lại được chia thành những loại nặng, nhẹ khác nhau (điếc, nghễnh ngãng, mù, loà chậm phát triển trí tuệ loại nhẹ, vừa và nặng, ngu,…) được dạy trong những lớp họ, những trường riêng. Ở đây trẻ được dạy theo chương trình riêng cho những phương pháp riêng, tách biệt với hệ thống quốc dân.
Theo quan niệm thời bấy giờ, trẻ em chia làm hai loại: trẻ lành và trẻ khuyết tật. Trẻ khuyết tật được coi như những bệnh nhân, những con bệnh cần phải được chữa trị để lành. Ví dụ trẻ điếc câm cần phải được dạy nói, trẻ mù cần phải được dạy định hướng không gian để trẻ có thể đi lại,…
Quan điểm giáo dục chuyên biệt: trẻ khuyết tật là đối tượng giáo dục được huấn luyện để trở thành "bình thường". Chính vì vậy người ta nói rằng, mô hình giáo dục chuyên biệt là "mô hình y tế".
Trẻ khuyết tật là đối tượng trợ giúp của các tấm lòng hảo tâm, từ thiện. Họ nhận được sự thương hại của xã hội.
Trẻ khuyết tật là đối tượng của quá trình phục hồi chức năng và giáo dục, trong đó mục tiêu phục hồi chức năng là mục tiêu cuối cùng. Tuỳ thuộc vào các chuyên ngành (y tế) khác nhau, người ta chia trẻ khuyết tật thành những dạng, những mức độ nặng nhẹ khác nhau để phục hồi chức năng và giáo dục. Như trẻ điếc: điếc nhẹ, điếc vừa, điếc nặng và điếc sâu; trẻ khiếm thị: mù nhìn kém; trẻ trí tuệ thiểu năng có loại nhẹ, vừa, nặng, hay ngu si đần độn,… Cũng trên cơ sở đó nhiều ngành khoa học ra đời, như giáo dục đặc biệt, tâm lí học đặc biệt. Hiện nay trên thế giới tồn tại hơn 40 tên gọi khác nhau cho các loại tật khác nhau. Và như vậy cũng có chừng ấy biện pháp, phương pháp khác nhau nhằm phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật và hi vọng đến một ngày nào đó, đứa trẻ sẽ trở nên "lành lặn" như những trẻ em khác.
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, ở nhiều nước phương Tây, khi nền kinh tế nông nghiệp chuyển dần sáng nền kinh tế công nghiệp, thị trường thì nhà trường đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo đội ngũ công nhân và cán bộ kĩ thuật có sức lao động, có tay nghề vững chắc, có tính kỉ luật cao,… đáp ứng cho nhu cầu nhân lực ngày một nhiều của các nhà máy, xí nghiệp, công ty. Vì vậy, học sinh trong nhà trường cần trải qua những trắc nghiệm để phân loại và đào tạo ra những con người phù hợp, đáp ứng những công việc đã được định sẵn, điều này dẫn đến nhiều trẻ khuyết tật bị tách ra khỏi nền giáo dục phổ thông. Trẻ khuyết tật được coi là "không đủ tiêu chuẩn" để trở thành người lao động "bình thường". Thậm chí trẻ khuyết tật còn bị coi là vật cản cho sự phát triển bình thường của trẻ khác cùng tuổi. Người ta cho rằng, sự có mặt của trẻ khuyết tật sẽ có hại cho những học sinh khác, gây ra ảnh hưởng xấu về đạo đức.
Chính vì vậy, trẻ khuyết tật buộc phải tách khỏi trẻ em khác. Sự tách biệt này mang một ý nghĩa khác là quản lí, giám sát. Đôi khi, mục tiêu này lại là mục tiêu chính.
Một tồn tại cơ bản của giáo dục chuyên biệt là quan điểm đánh giá trẻ khuyết tật: coi trẻ khuyết tật là những trẻ thấp kém, không có khả năng sống và học tập như những trẻ khác. Người ta chỉ nhìn thấy những khiếm khuyết của trẻ. Trẻ không nghe được, không nói được, trẻ không nhìn được, trẻ không nhận thức được, trẻ chậm hiểu,… không nhìn thấy được những mặt tích cực - những cái trẻ có thể làm được. Điều này dẫn tới cách tổ chức giáo dục: tách trẻ ra khỏi cộng đồng, phương pháp giáo dục đặc biệt: gây nên những hạn chế trong quá trình nhận thức.
Sự giáo dục tách biệt sẽ mang lại cho trẻ những mặc cảm, tự ti là những cản trở to lớn nhất làm cho trẻ không thể phát triển hết khả năng của mình. Hơn nữ, sự tách biệt này tạo tiền đề cho sự tách biệt khỏi cộng động. Từ nhỏ trẻ đã không được hưởng quyền bình đẳng về học tập thì lớn lên, khi trưởng thành, họ không thể trở thành những thành viên bình đẳng ngoài xã hội.
Môi trường giáo dục chuyên biệt là môi trường rất hạn chế về mọi mặt. Môi trường này không mở ra cơ hội để trẻ khuyết tật phát triển hết những tiềm năng của mình. Ví dụ một trẻ bị điếc học trong trường chuyên biệt sẽ không có cơ hội tốt hơn để phát triển ngôn ngữ như ở phổ thông, ngoài xã hội. Người ta sử dụng trong trường chuyên biệt những chương trình riêng, phương pháp riêng - những cái đã được hạn chế theo dạng khuyết tật và đồng thời cũng hạn chế luôn điều điện để trẻ tự phát triển. Chính vì vậy, hiệu quả giáo dục trong các trường chuyên biệt rất thấp. Nhiều học sinh sau khi tốt nghiệp lại phải bắt đầu lại từ đầu để tái hòa nhập xã hội.
Ngoài ra mô hình giáo dục chuyên biệt rất tốn kém: chi phí cao cho việc xây dựng cơ sở vật chất, đào tạo đội ngũ giáo viên riêng, cách làm này sẽ không huy động được lực lượng xã hội tham gia giáo dục. Thực hiện mô hình giáo dục chuyên biệt sẽ làm cho phần lớn trẻ khuyết tật bị thất học.
Cũng thừa nhận rằng, mô hình giáo dục chuyên biệt hình thành và phát triển trong một thời gian dài (3 thế kỉ) và vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Trước hết nó đã làm cho một bộ phận nhỏ trẻ khuyết tật được chăm sóc và giáo dục.
Giáo dục chuyên biệt hình thành và phát triển phù hợp với những điều kiện xã hội, kinh tế và phù hợp với trình độ nhận thức, trình độ phát triển khoa học kĩ thuật của nhân loại. Nó đóng vai trò tích cực trong lịch sử phát triển của tật học.
Xem thêm:
Mô hình giáo dục chuyên biệt cho trẻ tự kỷ
Nguyên tắc căn bản khi dạy trẻ học nói
Lời khuyên cho cha me có con bị rối loạn
Mô hình giáo dục chuyên biệt cho trẻ tự kỷ
-------------------------------------------------------------------------------
Mọi thông tin cũng như thắc mắc về chương trình học cho các bé, ba mẹ có thể tham khảo tại thông tin dưới đây:
Học viện giáo dục hòa nhập Edison ( https://edison.hoanhap.edu.vn/ )
Address: 196/143 Trường Chinh, Quán Ngữ, Kiến An, Hải Phòng, Vietnam
Phone: 022 536 1111 - 0833 319 119
Email: info@edison.hoanhap.edu.vn
Website: https://edison.hoanhap.edu.vn/
Với một đứa trẻ bị tăng động giảm chú ý, việc học tập không phải là dễ dàng vì chúng rất khó để ngồi yên hay tập trung nghe giảng. Chưa kể, tại lớp học, trẻ có rất nhiều giờ luyện tập các kỹ năng. Sau giờ học đôi khi có thêm bài tập về nhà,… tất cả chỉ khiến một ngày của đứa trẻ trở nên tồi tệ hơn mà thôi.
Giai đoạn trẻ bước vào độ tuổi đi học là giai đoạn khó khăn nhất với bất kỳ đứa trẻ nào. Lúc này, trẻ dành nhiều thời gian hơn cho các hoạt động bên ngoài gia đình, có nhiều mối quan tâm hơn, nhiều người cần tương tác hơn,…vv. Với một đứa trẻ tự kỷ, việc này là không hề dễ dàng, do hạn chế của chúng trong giao tiếp xã hội, nguy cơ lo lắng thái quá và stress trẻ gặp phải khá cao, ảnh hưởng đến việc học tập, sinh hoạt bình thường của trẻ.
Trẻ tự kỷ thường rất nhạy cảm với các yếu tố tác động như âm thanh, ánh sáng, tác động xúc giác (đụng chạm cơ thể),…vv. Trẻ tự kỷ cũng rất dễ mất bình tĩnh khi đối mặt với những thay đổi, những điều trẻ cảm thấy xa lạ hay khó chịu từ các đồ vật, con người và hoạt động thường ngày. Những cảm xúc tiêu cực có thể khiến trẻ tự kỷ càng khó kiểm soát hành vi, suy nghĩ hơn nữa, chúng có thể sẽ trở nên kích động, la hét, đập phá, gây nguy hiểm cho chính mình và người xung quanh.
những người khiếm thính, khiếm thị, mắc các khuyết tật cơ thể hoặc thua kém về trí tuệ,…vv. Khi giao tiếp với họ cần tránh làm tổn thương, hay không được có ý xúc phạm, cần luôn thể hiện sự tôn trọng và quan tâm đúng mực. Đặc biệt là với trẻ em bị các khiếm khuyết, chúng có thể rất nhạy cảm. Để có được những cuộc giao tiếp hiệu quả với những đứa trẻ đặc biệt, cần lưu ý một số điểm sau đây:
Dù áp dụng phương pháp nào, thì cũng cần theo dõi, đánh giá đều đặn. Việc chữa trị cho trẻ giống như thực hiện một kế hoạch, cần có chiến lược rõ ràng, thời gian để thực hiện và định kỳ đo lường kết quả để điều chỉnh. Việc chữa trị là một quá trình dài và nhiều khó khăn, cần sự nỗ lực từ cả phía trẻ mắc bệnh lẫn cha mẹ/người chăm sóc. Hãy kiên trì với việc điều trị dù kết quả có thể đến chậm.
người ta có thể thiết kế các phương pháp trị liệu bằng tác động đến não bộ của trẻ để cải thiện tình trạng tăng động và giảm chú ý. Một trong số đó là thiết lập chế độ ăn giúp cơ thể sản sinh ổn định lượng Dopamine cần thiết – phương pháp này có tác động tích cực đến việc cải thiện khả năng tập trung cho trẻ tăng động giảm chú ý:
Bài viết này muốn giới thiệu đến bạn, một phương pháp tưởng chừng “vô lý”, “không thể”, nhưng đã được các nhà khoa học Úc chứng minh là mang lại lợi ích tốt cho tình trạng của trẻ tự kỷ. Và phương pháp đó là: Cho trẻ tự kỷ chơi với thú cưng.
Việc chuẩn đoán tự kỷ nên được thực hiện bởi các sĩ chuyên khoa, thông qua một loạt các hoạt động, các quan sát và các bài kiểm tra được thiết kế dành riêng để thăm dò và chuẩn đoán có độ chính xác cao. Đồng thời, cũng dựa trên thông tin về triệu chứng được cung cấp bởi cha mẹ/ người chăm sóc trẻ để có kết luận chính xác nhất
Vậy, “Hiếu động” và “Tăng động” khác nhau như thế nào? Làm thế nào để nhận biết con đang hiếu động hay bị tăng động giảm chú ý?
Tăng động giảm chú ý hay Attention Deficit Hyperactivity Disorder (ADHD) là một chứng rối loạn tâm lý rất thường gặp ở trẻ em. Tỉ lệ trẻ mắc phải là 3-6%. Biểu hiện bất thường của tăng động giảm chú ý chỉ được nhận thấy rõ rệt nhất vào giai đoạn trẻ từ 4-7 tuổi, giai đoạn trẻ đến trường.
Hội chứng tự kỷ ở trẻ nhỏ tại Việt Nam không có gì là quá xa lạ với xã hội. Số trẻ mắc phải hội chứng này đang ngày một gia tăng và có nguy cơ trở thành một “căn bệnh thế kỷ” phổ biến trong cộng đồng. Thế nhưng nhận thức của mọi người về hội chứng này vẫn còn chưa sâu sắc, thậm chí hời hợt. Các định kiến xã hội cùng các nhìn nhận không chính xác về tự kỷ đã gây ra rất nhiều khó khăn cho các bậc cha mẹ và chính đứa trẻ trong nỗ lực hòa nhập với cộng đồng.
Tăng động giảm chú ý được xếp vào nhóm hội chứng rối loạn phát triển lan tỏa ở trẻ. Nghĩa là trẻ bị suy giảm một chức năng nào đó, dẫn đến suy giảm các chức năng khác của cơ thể.
Thông thường trẻ đã mắc phải chứng bệnh này rất lâu rồi mới được phát hiện ở độ tuổi đến trường, gây rất nhiều khó khăn cho trẻ, ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển bình thường của trẻ.
Để nuôi dạy một đứa trẻ bình thường, cha mẹ đã tốn không ít công sức, và nếu đứa trẻ đó còn là một đứa trẻ đặc biệt, thì việc này càng khó khăn và nhiều thử thách hơn. Chẳng ai muốn con khi sinh ra gặp phải các vấn đề về sức khỏe hay tâm lý cả, nhưng nếu trường hợp này xảy ra thì sao? Cha mẹ sẽ phải làm gì khi biết con là một đứa trẻ đặc biệt – con là một đứa trẻ tự kỷ?
Tự kỷ là một hội chứng rối lọan phát triển lan tỏa phức tạp của hệ thần kinh, não bộ thường gặp phải ở trẻ dưới 3 tuổi.
ABA phân chia các nhiệm vụ thành nhiều nhiệm vụ nhỏ hơn với rất nhiều các hoạt động, sau đó dạy đứa trẻ và giúp chúng hoàn thành các nhiệm vụ này đến khi ghi nhận được một hành động tốt. Kỹ thuật này nhằm mục đích củng cố hành vi cho trẻ tự kỷ - nghĩa là khuyến khích các hành vi tốt cần phát huy của trẻ, khuyến khích chúng tương tác giao tiếp và loại bỏ dần các hành vi không phù hợp ngăn cản trẻ hòa nhập. Được áp dụng trong việc dạy kỹ năng, dạy tương tác cho trẻ tự kỷ.
bạn tuyệt đối không nên quy chụp trí tuệ của trẻ tự kỷ, hay có thái độ xem thường, miệt thị chúng. Chúng có thể rất thông minh, chẳng hạn như những đứa trẻ bị hội chứng Asperger – một dạng tự kỷ thông thái - chỉ là không biết cách thể hiện mình thôi.
Theo một số nghiên cứu mới đây, các nhà khoa học phát hiện ra rằng, người mắc chứng tăng động giảm chú ý (ADHD) có nguy cơ phát triển sớm chứng bệnh Parkinson gấp hai lần so với người bình thường.
Hiện vẫn chưa có các nghiên cứu hay kết luận chính xác về tác dụng phụ của thuốc trong điều trị chứng Tăng động giảm chú ý (ADHD) ở trẻ. Tuy nhiên, trước các lợi ích và rủi ro thấy rõ từ việc dùng thuốc, cha mẹ nên cân nhắc quyết định nên hay không nên, hoặc có thể sử dụng kết hợp để có thể đạt được kết quả mong muốn, giảm thiểu được rủi ro sử dụng thuốc.